Tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao tinh thần trách nhiệm
19-4-2016

  1. Khái niệm về trách nhiệm:
Trách nhiệm là phần việc được giao, nghĩa vụ phải làm tròn theo cương vị, chức trách của mình. Con người có bao nhiêu vị trí, vai trò, chức năng trong các mối quan hệ xã hội thì có bấy nhiêu trách nhiệm. Đó là trách nhiệm thành viên của mỗi người trong quan hệ gia đình; trong cộng đồng, tổ chức, xã hội; trách nhiệm công dân trong quan hệ với đất nước; trách nhiệm phục vụ nhân dân, là công bộc của dân, của cán bộ, công chức…

  Trách nhiệm là một khái niệm kép, vừa thuộc phạm trù đạo đức, vừa thuộc phạm trù pháp luật. Có trách nhiệm chỉ chịu sự phán xét của dư luận, đạo đức. Có trách nhiệm ngoài sự phán xét của dư luận, đạo đức còn chịu sự xét xử của pháp luật. Trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức, chịu sự phán xét của cả dư luận, đạo đức, kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước, trong đó việc nhận thức đúng đắn, tự giác thực hiện có vai trò quan trọng.

Tinh thần trách nhiệm là sự nhận thức (nông, sâu, đầy đủ hay chưa đầy đủ) về nghĩa vụ phải hoàn thành trong mối quan hệ nhất định. Ngược lại với ý thức trách nhiệm là thái độ vô trách nhiệm. Hồ Chí Minh chỉ rõ trách nhiệm của mỗi người trong các mối quan hệ, nhưng nhấn mạnh trước hết là trách nhiệm với Tổ quốc, với nhân dân. Người thường nhắc nhở mỗi người có 3 trách nhiệm: trước Đảng, trước dân, trước công việc. Trong 3 trách nhiệm đó, trước hết cần có ý thức trách nhiệm cao trước công việc, trước nhân dân để làm thật tốt rồi mới đem kết quả đó mà báo cáo với cấp trên, với Đảng.
- Trong hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về những phẩm chất đạo đức của con người Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: mỗi người đều phải tuân theo đạo đức công dân. Đó là tuân theo pháp luật của Nhà nước, kỷ luật lao động, giữ gìn trật tự chung, đóng góp (nộp thuế) đúng kỳ, đúng số… Đạo đức công dân là hăng hái tham gia công việc chung, bảo vệ tài sản công cộng, bảo vệ Tổ quốc, cần, kiệm xây dựng nước nhà... Người nói, mỗi người đều phải có bổn phận với đất nước. Nước là nước của dân; và dân là chủ của nước. Tổ quốc là Tổ quốc chung. Tổ quốc độc lập thì ai cũng được tự do. Nếu mất nước thì ai cũng phải làm nô lệ.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trách nhiệm công dân trước hết và bao trùm nhất là trách nhiệm với Tổ quốc, với nhân dân. Cơ sở của việc nâng cao ý thức trách nhiệm trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ quan niệm mỗi người đều có trách nhiệm trước Tổ quốc. Khi Tổ quốc lâm nguy thì mọi người đều phải đứng lên. Trong lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946 Bác viết: "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc".
- Đối với cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, Người yêu cầu để làm gương cho nhân dân, phải có đạo đức cách mạng, vì cán bộ, đảng viên là tấm gương của xã hội, phải nêu gương, "đảng viên đi trước, làng nước theo sau". Mỗi cán bộ, đảng viên, cán bộ quản lý, lãnh đạo vừa phải thực hiện đạo đức công dân, vừa thực hiện đạo đức của người cán bộ. Dù công tác ở lĩnh vực nào cũng đều phải có phẩm chất đạo đức. Cấp bậc càng cao càng phải nêu gương về đạo đức.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Đạo đức cách mạng có thể nói tóm tắt là: Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”. Người viết: “Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”.
Cơ sở của trách nhiệm phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, viên chức là "dân là chủ và dân làm chủ". Chính phủ, cán bộ là công bộc của dân. Nhà nước là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Việc gì hại đến dân thì Chính phủ phải hết sức tránh. Việc gì lợi cho dân thì Chính phủ phải ra sức làm.
- Đối với cán bộ, đảng viên của Đảng, cơ sở của ý thức trách nhiệm phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân bắt nguồn từ mục đích và bản chất của Đảng.
- Cán bộ, đảng viên, công chức phải phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của quần chúng nhân dân; nhân dân là sức mạnh vô địch.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, sự nghiệp cách mạng là do nhân dân tiến hành. Nhân dân là người làm ra lịch sử. Sức mạnh của nhân dân là vô địch. Không có nhân dân, Đảng, Chính phủ không có lực lượng. Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trên thế giới này không có sức mạnh nào bằng sức mạnh của nhân dân. Có dân là có tất cả. “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”... Nhiệm vụ phục vụ nhân dân của Đảng là tổ chức và phát huy sức mạnh trong nhân dân để đấu tranh giành lợi ích cho nhân dân, để xây dựng và bảo vệ xã hội mới do nhân dân làm chủ.
2. Nội dung nâng cao tinh thần trách nhiệm trong tư tưởng Hồ Chí Minh
a) Về tinh thần trách nhiệm
- Theo Hồ Chí Minh, tinh thần trách nhiệm của mỗi người trước hết thể hiện trong quan hệ với nhiệm vụ được giao, với công việc phải làm.
- Tinh thần trách nhiệm biểu hiện trong việc nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ; thực hiện đúng đường lối quần chúng.
3. Các giải pháp nâng cao tinh thần trách nhiệm trong tư tưởng Hồ Chí Minh
a) Các giải pháp về phía Đảng
- Giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về Đảng.
- Phải giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng.
b) Các giải pháp từ phía cán bộ, đảng viên
- Về nhận thức:
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải nhận thức sâu sắc về tư cách và bổn phận của mình.
+ Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên cần phải có “tính Đảng”. 
- Về chính trị, tư tưởng:
+ Phải nắm vững đường lối cách mạng của Đảng. Đường lối đó vừa có nội dung xuyên suốt trong toàn bộ tiến trình cách mạng, đồng thời phản ánh thực tiễn của từng giai đoạn. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời.
+ Tu dưỡng về chính trị là phải chống khuynh hướng “tả” và khuynh hướng "hữu", ngả nghiêng dao động. Điều này hoàn toàn xa lạ với việc nắm vững và kiên định về chiến lược, mềm dẻo về sách lược và hết sức linh hoạt trong sử dụng các biện pháp tiến hành cách mạng theo tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
+ Phải nghiêm túc nghiên cứu, học tập lý luận Mác - Lênin.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, "lý luận cách mạng như cái bàn chỉ nam", nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng, như nhắm mắt mà đi.
- Về đạo đức:
+ Phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức trước hết là "trung với nước, hiếu với dân". Người nói, đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng. Điểm xuất phát quan trọng nhất là phải xác định lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì sẽ tiến đến chỗ chí công, vô tư. Mình đã chí công, vô tư thì khuyết điểm sẽ ngày càng ít đi và tính tốt ngày càng thêm. Tu dưỡng đạo đức cách mạng phải toàn diện, trên tất cả các khía cạnh.
+ Phải thường xuyên nuôi dưỡng lòng thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân. Vì thế mà chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không ngại cực khổ, không sợ oai quyền.
+ Tu dưỡng đạo đức là rèn luyện đức tính ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy. Thấy việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói. Là rèn luyện cho đầu óc trong sạch, sáng suốt, có đức tính biết xem người, biết xét việc…
+ Tu dưỡng đạo đức phải rèn luyện đức tính có gan nói, có gan phụ trách, có gan làm việc, có gan tự phê bình, có gan sửa chữa khuyết điểm, có gan chịu đựng khó khăn, chống lại sự vinh hoa, phú quý không chính đáng. Nếu cần thì có gan hy sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát.
+ Phải rèn đức tính trong sạch, không tham địa vị, không tham tiền tài, ít lòng ham muốn về vật chất. Không ham người tâng bốc mình.
+ Phải rèn luyện đức tính cần, kiệm, liêm khiết, chính trực.
+ Phải tu dưỡng, rèn luyện, đấu tranh bền bỉ hằng ngày, suốt đời.
- Về văn hoá, học vấn, chuyên môn nghiệp vụ:
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi việc học văn hoá, nâng cao học vấn là một mặt của chế độ công tác, một biểu hiện của đạo đức cách mạng.
+ Cán bộ, đảng viên phải chịu khó, học tập thường xuyên, mọi nơi, mọi lúc, "học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân". Học tập suốt đời nhằm thâu thái tri thức, khoa học, kỹ thuật của nhân loại, tăng năng suất công tác, cải tiến công việc.
Người khẳng định, cán bộ, đảng viên không chỉ giỏi về chính trị mà cũng phải giỏi về chuyên môn. Làm nghề gì cũng phải học và làm nghề gì phải thạo nghệ ấy. Không có chuyên môn sẽ dẫn tới bệnh nói suông, lãnh đạo chung chung. Cán bộ chính trị phải biết kinh tế, cán bộ kinh tế phải có chính trị. Đó chính là một biểu hiện của nâng cao tinh thần trách nhiệm.
- Về phương pháp công tác, cách lãnh đạo:
Cách lãnh đạo, cách làm việc của cán bộ, đảng viên, hiểu rộng ra là văn hóa lãnh đạo, văn hóa ứng xử. Theo Hồ Chí Minh nói chung có hai cách làm việc: Làm việc theo cách quan liêu và làm việc theo cách quần chúng.
Phong cách và phương pháp công tác có văn hóa của cán bộ, đảng viên là theo đúng đường lối quần chúng, là nguyên tắc, là tình cảm, trách nhiệm của những công bộc của dân.
4. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tế của cơ quan:
- Trách nhiệm được thể hiện cao nhất là của người đúng đầu, tiếp đến trách nhiệm của lãnh đạo cơ quan và cán bộ, đảng viên, công chức
- Trước hết muốn nâng cao trách nhiệm mọi Đảng viên, cán bộ công chức phải nắm rõ các chủ chương, chính sách của đảng và pháp luật nhà nước; Phải học tập nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị, trao dồi đạo đức với mục tiêu là phục vụ đối tượng đến quan hệ, giao dịch trong công việc. 
- Lãnh đạo cơ quan tạo mọi điều kiện để cán bộ được học tập nâng cao nghiệp vụ và lý luận chính trị cũng như cơ sở vật chất phục vụ cho công tác.
- Cán bộ, Đảng viên phải luôn học tập, nghiên cứu trao dồi kiến thức, học tập qua sách vở, học tập qua đồng nghiệp …nắm vững các quy định pháp luật để thực thi nhiệm vụ, thực hiện tốt chức trách của mình. Khi xử lý công việc phải công tâm không quan liêu.
- Để hoàn thành công việc chung của cơ quan, trong xử lý công việc có liên quan đến nhiều Phòng, Ban phải phối hợp cùng giúp đở lẫn nhau để hoàn thành nhiệm vụ.
- Nâng cao tính tự chịu trách nhiệm khi thực thi công vụ, sai phải biết sửa, lắng nghe ý kiến góp ý của đồng nghiệp để cùng tiến bộ.
- Lắng nghe góp ý của các tổ chức cá nhân để kịp thời sửa chữa nhữa sai sót, hạn chế trong xử lý công việc
- Xây dựng và lập kế hoạch hành động của co quan trong từng quý và năm.
- Rút ngắn thời gian xử lý công việc theo tiêu chuẩn ISO mà Sở đang áp dụng, tận tụy với công việc, không quan liêu, không lãng phí thời gian trong thực thi công vụ.

Chi tiết tại đây

  
Số lượt xem:3001